12.12.11

Truman Capote - Máu lạnh



Tháng 12.2011, Công ty Văn hóa & Truyền thông Nhã Nam trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc cuốn tiểu thuyết lừng danh nhất của Truman Capote – Máu lạnh, được viết trong suốt bốn năm với sự cộng tác chặt chẽ của Harper Lee, tác giả Giết con chim nhại. Được giới phê bình đánh giá là cuốn tiểu thuyết phi hư cấu xuất sắc nhất, "một cuộc cách mạng văn chương" của Mỹ, tác phẩm này đã đưa tên tuổi ông trở thành một trong những tác gia văn chương đương đại lớn nhất nước Mỹ.

A. VỀ TÁC GIẢ TRUMAN CAPOTE

Truman Capote (tên thật Truman Streckfus Persons) là nhà văn Mỹ lừng danh, tác giả của nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim được coi là kinh điển. Ông sinh ngày 30.09.1924 tại New Orleans. Ông đã trải qua thời thơ ấu không lấy gì làm êm thắm, cha mẹ ly dị, cha ngồi tù, ông phải sống xa mẹ một thời gian dài và chuyển nơi ở nhiều lần.

Ông phát hiện ra thiên tư của mình vào năm 11 tuổi và sớm thành danh ngay đầu tuổi đôi mươi với nhiều truyện ngắn được đăng trên tạp chí Harper’s Bazaar. Đã có ít nhất 20 bộ phim và kịch truyền hình được dựng dựa trên tiểu thuyết, truyện ngắn và kịch bản của ông.

Capote hai lần giành được giải O. Henry Memorial Short Story và là thành viên của Viện Văn chương Nghệ thuật Quốc gia Hoa Kỳ (National Institute of Arts and Letters). Ông mất ngày 25/08/1984 sau nhiều năm nghiện rượu và ma túy, chỉ ít ngày trước sinh nhật lần thứ sáu mươi.

Truman Capote còn là một người đồng tính công khai. Một trong những người tình đầu tiên của ông là Giáo sư văn học Đại học Smith Newton - Arvin.

B. VỀ TÁC PHẨM “MÁU LẠNH”

Máu lạnh (In cold blood) là tiểu thuyết lừng danh nhất của Truman Capote. Kiệt tác này tường thuật một sự kiện có thật: vụ ám sát tàn bạo cả bốn người trong một gia đình trại chủ ở Kansas.

Năm 1959, nhà văn Mỹ Truman Capote tình cờ đọc được thông tin về một vụ thảm sát bốn mạng người ở mặt sau của tờ báo New York Times. Ấn tượng mạnh với câu chuyện rùng rợn này, ông quyết định đi sâu vào tìm hiểu vụ việc. Trong suốt bốn năm, với sự cộng tác chặt chẽ của nhà văn Harper Lee, tác giả Giết con chim nhại, Truman Capote đã tiến hành thu thập các tư liệu, tìm hiểu tâm lý của nạn nhân và động cơ của tên giết người. Cuối cùng, năm 1964 ông cho ra đời Máu lạnh, cuốn tiểu thuyết dựa trên câu chuyện năm nào.

Chính xác là vào ngày 14 tháng Mười một năm 1959, hai gã Richard Eugene Hickock và Perry Edward Smith đã đột nhập vào nhà một trại chủ ở Holcomb, tiểu bang Kansas và ra tay sát hại cả bốn người trong gia đình, gồm đôi vợ chồng với hai đứa con nhỏ. Nạn nhân không phải ai xa lạ mà chính là gia đình Clutter, “một trong những chủ trại được kính trọng khắp xa gần và được biết tiếng nhất ở vùng này”.

Làng Holcomb là một vùng hẻo lánh nhưng sung túc, giàu tài nguyên khí đốt. Suốt bảy năm qua không hề có hạn hán, người dân luôn an cư lạc nghiệp. Chính vì vậy, vụ án đã trở thành cú sốc lớn đối với mọi người và tạo nên một làn sóng mạnh mẽ trong dư luận xã hội. Cả thành phố vô cùng phẫn nộ bởi hành động vô nhân tính ấy.

Ngay lập tức, Cục Điều tra Bang Kansas vào cuộc. Tuy nhiên, các viên chức điều tra thừa nhận họ không tìm ra được động cơ của vụ án. Họ thậm chí không xác định được có bao nhiêu tên sát nhân tham gia bởi lẽ chúng không để lại một dấu vết, không một nhân chứng nào trông thấy. Vụ án được xếp là tàn ác nhất trong lịch sử Kansas.

Người đọc không chỉ bị lôi cuốn bởi một câu chuyện hấp dẫn, chặt chẽ từ đầu đến cuối mà còn bởi những đoạn tường thuật, miêu tả đầy chi tiết, sống động. Bằng bút lực phi thường, Truman Capote đã lật ngược thời gian, đưa người đọc trở về giai đoạn trước khi xảy ra vụ án mạng thảm khốc. Tác giả dựng lại khung cảnh gia đình Clutter khi còn sống một cách hết sức tỉ mỉ. Ở đó, người đọc có thể thấy rõ tính cách cũng như tâm lý, tình cảm của từng nhân vật.

Song song đó là hình ảnh hai tên sát nhân trẻ tuổi cùng mối quan hệ phức tạp của chúng. “Bốn phát súng nổ, tóm lại đã kết liễu sáu mạng người” - Truman Capote nhận định ngay khi bắt đầu tác phẩm. Bởi lẽ vụ thảm sát không chỉ cướp đi bốn mạng người nhà Clutter, mà còn đặt đấu chấm hết cho cuộc đời của Hickock và Smith, hai tên thú tính. Chẳng bao lâu sau, nhà chức trách tóm được bọn sát nhân. Với chứng cớ rành rành, hai kẻ gây ra tội ác cuối cùng phải lãnh án tử hình.

Thế nhưng, Capote không trực tiếp lên án tội ác mà trái lại đưa ra nhiều dữ kiện, tình tiết để độc giả được hiểu rõ hơn về những kẻ tử tội. Một mặt, ông thể hiện rõ ràng rằng tội ác này không thể khoan thứ. Mặt khác, ông cũng cho người đọc thấy được mặt kia của hai tên sát nhân, về hoàn cảnh gia đình, lý do gì dẫn chúng đến con đường tội ác. Ông chuyển tiếp các chi tiết và sự kiện một cách linh hoạt, khiến cho người đọc dù biết trước thủ phạm ngay từ đầu vẫn dõi theo mạch truyện đến cuối.

Với Máu lạnh, Truman Capote không chỉ thể hiện vai trò của một nhà văn, nhà báo, mà còn trở thành một điều tra viên xuất sắc. Điểm hấp dẫn của Máu lạnh là tác giả không hề hư cấu hay thêm bớt mà tuyệt đối trung thành với sự thật. Ông chỉ viết dựa trên các bản báo cáo của cơ quan điều tra và những lần chính ông trực tiếp phỏng vấn gia đình, bạn bè của các nạn nhân, cũng như hai tên tội phạm.

Bằng cách “xử lý một sự kiện có thật bằng những kỹ thuật của văn chương hư cấu”, nhà văn muốn tạo ra một thể dung hợp mới, một thứ nằm giữa “chuyện thật trăm phần trăm” và tác phẩm nghệ thuật. Do đó, ông tự xem tác phẩm của mình thuộc loại phi hư cấu, trong đó, "mỗi từ đều là sự thật". Được vinh danh là tác phẩm tiêu biểu và xuất sắc khó lòng vượt qua của cái gọi là “báo chí kiểu mới”, Máu lạnh đồng thời cũng chính là thành tựu lớn nhất, đỉnh cao sự nghiệp của Capote dù không phải tác phẩm cuối cùng của ông.

Tác phẩm đã được chuyển thể thành phim điện ảnh cùng tên vào năm 1967. Riêng câu chuyện về hành trình viết tiểu thuyết của Capote đã được Hollywood dựng thành hai bộ phim, trong đó có Capote, bộ phim giành được giải Oscar năm 2005.

Thông cáo báo chí của Nhã Nam

18.10.11

Ký sự Cao Lạng

Hai cuốn từ điển bách khoa



Tuệ Mai - Về phía trời xanh


Về phía trời xanh - Tuệ Mai, Văn Chương 1973

Being anh Time - Martin Heidegger

Dịch bởi John Macquarrie & Edward Robinson, Harper & Row Publishers, 1962

1.10.11

Hùng Vương dựng nước (4 tập)








Hùng Vương dựng nước, Nxb Khoa học xã hội, tập 1 1970, tập 2 1972, tập 3 1973, tập 4 1974

Trống Đông Sơn



Trống Đông Sơn, Phạm Minh Huyền - Nguyễn Văn Huyên - Trịnh Sinh (Viện Khảo cổ học), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1987

17.9.11

Phía đông vườn địa đàng - John Steinbeck


Phía đông vườn địa đàng - John Steinbeck, Nxb Tổng hợp Tiền Giang, 1988

Ly thân - Trần mạnh Hảo


Tiểu thuyết Ly thân, Trần Mạnh Hảo, Nxb Đồng Nai 1989

6.9.11

4 cuốn của Dương Thu Hương





1. Hành trình ngày thơ ấu, Nxb Kim Đồng, Hà Nội, 1985. Bìa và minh họa của Đặng Đức Sinh;
2. Chuyện tình kể trước lúc rạng đông, Nxb Hà Nội, 1988;
3. Những thiên đường mù, Nxb Phụ nữ, 1988;
4. Các vĩ nhân tỉnh lẻ, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1988.

1.9.11

Thuyết Đường diễn nghĩa


Thuyết Đường diễn nghĩa, trọn bộ 15 cuốn, Nxb Phạm Đình Khương, Chợ Lớn, 1951

21.7.11

Nhà văn Nguyên Ngọc: Vĩnh biệt Condo, bậc hiền triết của chúng ta, của Tây Nguyên

>> Chúng tôi ăn rừng

Georges Condominas đã ra đi trong đêm thứ bảy 16 rạng sáng chủ nhật 17-7-2011. Thế giới vừa mất một trong những nhà dân tộc học lớn nhất của mình. Chắc chắn trong những ngày đến sự kiện này sẽ gây xao động không chỉ ở Pháp, và ở Việt Nam, nơi nhà bác học này đặc biệt gắn bó. Và tôi chắc ở một nơi sâu tít trong tận cùng Tây Nguyên, tại cái làng nhỏ có tên là Sar Luk bên bờ con sông Krong Nô hoang vắng, dưới chân dãy Chư Yang Sin hùng vĩ, một dân tộc rất nhỏ tên là dân tộc Mnông Gar sẽ làm lễ bỏ mã cho ông, Yoo Condo thân thiết của họ - Yoo là cách người Mnông Gar gọi người nơi khác đến mà đã trở nên ruột thịt.

Tôi đã may mắn được là một người bạn nhỏ của con người vĩ đại ấy, và cách tôi được gặp và quen ông thật lạ, cũng có thể là tiêu biểu cho một trong những tính cách độc đáo của ông. Hơn 30 năm trước, một hôm đang ngồi làm việc ở nhà, tôi nghe điện thoại reo và bên kia đầu dây một người nói với tôi bằng tiếng Pháp: “Tôi vừa từ Paris sang, một chị bạn của anh bên ấy nhờ mang cho anh mấy cuốn sách, làm sao trao được cho anh?”.

Tôi cám ơn và xin ông cho biết tôi có thể đến gặp ông ở đâu để nhận sách. Ông trả lời: “Tôi là Geoges Condominas, hiện ở khách sạn X, anh có thể đến khoảng 2 giờ chiều nay không?” Không thể nói hết sửng sốt của tôi: hóa ra một nhà bác học lớn, mà tôi đã được đọc một số tác phẩm nổi tiếng, vừa gọi điện cho tôi và chỉ mấy tiếng nữa tôi sẽ được gặp ông! Mươi phút sau, điện thoại lại reo. Vẫn là Condominas. “Thôi, anh không cần đến khách sạn đâu. Tôi có một người bạn ở Hà Nội biết nhà anh, tôi sẽ đến chỗ anh ngay bây giờ, được không?”.

Tả sao hết hồi hộp. Mươi lăm phút sau một chiếc xe máy đổ xịch trước thềm: nhà dân tộc học lừng danh thế giới, người thầy của bao thế hệ dân tộc học khắp năm châu, đến nhà tôi bằng xe ôm! Tôi còn nhớ mãi hình ảnh Condo hôm ấy, cũng sẽ là hình ảnh quen thuộc những người biết ông hẳn còn mãi ghi nhớ: chiếc áo vét tông lụng thụng và hơi nhàu, không hề có cà vạt, chiếc mũ phớt hơi rộng vành màu nâu nhạt. Ông ở chơi với tôi gần suốt buổi, say sưa trò chuyện về Tây Nguyên, ông hỏi tôi lên Tây Nguyên từ năm nào, cười bảo “Thế là thua tôi rồi, tôi đến Tây Nguyên trước anh một năm cơ…”.

Cuộc trò chuyện sôi nổi, song cũng nhiều lúc chùng xuống, chúng tôi chia sẻ cùng nhau niềm nhớ và nhất là nổi lo đau đáu về vùng đất xiết bao ruột thịt với cả hai chúng tôi, đang trải qua những thử thách có lẻ là lớn nhất, nặng nề nhất trong suốt lịch lâu dài của nó. Rừng và con người ở đó đang và rồi sẽ ra sao? “Anh biết đấy, Condo bảo, tôi từng viết “Chúng tôi ăn rừng…”. Ăn rừng, người Tây Nguyên “ăn rừng”, xin thức ăn cho sự sống của mình từ rừng, cũng như chúng ta nói chúng ta bú sửa mẹ mà lớn lên thành người. Tây Nguyên không còn rừng thì rồi sẽ ra sao? …”

Chính nổi ưu tư đeo đẳng và ngày càng thống thiết ấy gắn kết chúng tôi. Mỗi lần ông sang Việt Nam, chúng tôi đều gặp nhau, cùng đi Tây Nguyên, cùng đi miền núi Quảng Nam. Lần nào ông cũng bảo: “Tôi luôn thèm về đấy. Ở nơi ấy tôi đã học làm người”. Và ở cuộc triển lãm đặc sắc “Chúng tôi ăn rừng - G. Condominas ở Sar Luk” được trưng bày ở Paris, rồi ở Hà Nội tháng 12-2007, giới thiệu cuộc đời và sự nghiệp của ông, có một băng rôn ghi một câu của Condominas, có thể coi là châm ngôn của đời ông, nghe hơi lạ và rất đáng chú ý: “L’ethnographie est un genre de vie”. Có thể dịch: “Dân tộc học là một kiểu sống” hay “Dân tộc học là một lối sống”. Riêng tôi muốn dịch “Dân tộc học là một loại hình sống”. Loại hình, như các loại hình thực vật, động vật… Một loại hình, chứ không phải một nghề.

Condominas được đào tạo bởi những con người không chỉ là những nhà nhân học, dân tộc học lớn, mà còn là những nhân cách lớn, rất đặc biệt, hay đúng hơn nữa, thuộc một “loại hình” riêng, những Marcel Mauss, Paul Mus, Claude và Paul Lévy-Strauss, André Leroi-Gourhan, André-George Haudricourt, Pierre Edouard Mestre, Maurice Leenhardt… cùng với Georges Balandier, Jean Guiart, Paul Mercier… Có thể hiểu một cách vắn tắt “loại hình” ấy như thế này: một nhà khoa học bất kỳ có thể có hai cuộc đời, cuộc đời của người làm khoa học, và một cuộc đời riêng, không nhất thiết gắn làm một.

Nhà dân tộc học thì không, anh ta chỉ có một, không thể tách rời, dân tộc học là cuộc đời anh, cuộc đời anh là dân tộc học, không chừa lại chút gì; anh đồng hóa với đối tượng của mình đến cùng, cùng một số phận, cùng một số mệnh, cùng một loại hình, anh không ở bên ngoài mà bên trong nó, anh chính là nó, thành bại, mất còn.

Chúng ta biết dân tộc học, nói cho đúng, trước hết là một sản phẩm của châu Âu, của chủ nghĩa thực dân. Nó sinh ra khi chủ nghĩa thực dân châu Âu đi chinh phục và biết đến các dân tộc “lạc hậu”, tìm hiểu chúng. Vì vậy nhà dân tộc hầu như bao giờ cũng từ một nền văn hóa được tự coi là cao hơn đến quan sát, nghiên cứu một nền văn hóa bị coi là thấp hơn, từ bên ngoài nhìn vào và từ bên trên nhìn xuống…

Năm 1948 anh thanh niên Condominas vừa mới ra trường, sang Đông Dương, lên Tây Nguyên, tìm đến tộc người Mnông Gar ở làng Sar Luk hoang vắng, và ngay từ đầu ý thức sâu sắc “mặc cảm” đó, hiểu rằng anh phải khắc phục được nó, phải thay đổi toàn bộ cuộc đời mình, nhập thân được vào “loại hình” dân tộc học của mình. Hiểu Mnông Gar ư? Anh phải hiểu nó từ bên trong. Sau này anh sẽ nói, giản dị - vậy đó, chân lý thì bao giờ cũng giản dị - chẳng hạn, “để biết một món ăn Mnông Gar có ngon không thì nhất thiết phải là một người Mnông Gar”. Anh phải thành một người Mnông Gar. Condo vào làng Sar Luk, xin làm một căn nhà chen giữa làng, thành một hộ như bao nhiêu hộ của làng.

Thời gian ngắn đầu, anh còn phải nhờ một phiên dịch, nhưng rồi anh nhanh chóng học thạo tiếng, đến mức đêm nằm mơ toàn bằng tiếng Mnông Gar - nghĩa là anh tư duy không phải bằng tiếng Pháp nữa mà bằng tiếng Mnông Gar; anh “tư duy Mnông Gar”. Anh sống cùng số phận của làng, vui mừng, đau khổ, thành bại, sống chết cùng làng... Mnông Gar đến tối đa, để sự hiện diện của một người ngoài, lại là một da trắng, lại là một nhà dân tộc học nữa, không làm biến dạng hiện thực như hằng có của làng, làm biến dạng một cách tất yếu ứng xử của người làng với nhau và với người lạ khi làng có “khách” lạ…

Song ở đây còn có chỗ rất tế nhị: nhà dân tộc học hết sức “quên” mình đi, để cho làng cũng “quên” sự hiện diện của anh đi… nhưng đồng thời anh vẫn phải là nhà dân tộc học, tỉnh táo và sắc sảo quan sát. Có mâu thuẫn không, và nhà dân tộc học phải giải quyết mâu thuẫn đó như thế nào? Có lần tôi đã hỏi Condominas về điều ấy. Rất ngạc nhiên là ông cũng… rất ngạc nhiên. Ông bảo ông không để ý, hay đúng hơn không cảm thấy khó khăn. Có lẽ, ông nói, vì mình sống thật tình đến cùng với bà con.

Ta biết ít ra một ví dụ về thành công này của Condominas, trong việc ông tìm ra được bộ đàn đá tiền sử đầu tiên trên thế giới… Đêm ở làng Sar Luk, như mọi đêm, sau một ngày sống và lao động cùng bà con, Condo ngồi hút rượu cần và rít tẩu thuốc với các già làng bên bếp lửa nhà sàn, lơ mơ ngủ, chợt thức dậy lại hút rượu và rít thuốc... lại lơ mơ ngủ, không hề để ý một thanh niên ngày hôm ấy được điều đi sửa con đường từ Sar Luk đi Đầm Ròn đang lầm rầm kể chuyện… Đang thiêm thiếp, chợt Condo giật mình thức dậy, hỏi: “Cậu vừa nói gì đấy? Nói lại xem!”. Lơ mơ ngủ nhưng ông vừa nghe được hai tiếng “mau prum”. “Nhắc lại đi!”, ông khẩn khoản. Vì, đã quên mình là người lạ, người Pháp, hết sức thông thạo đến ăn sâu trong máu thịt tiếng Mnông Gar, nhưng đồng thời ông vẫn là nhà dân tộc học, tỉnh táo và sắc sảo, để chỉ cần hai tiếng “mau prum” nghe như trong mơ đã đánh thức ngay nhà dân tộc học trong ông dậy.

“Mau prum” có nghĩa là đá Chàm. Và là nhà dân tộc học thành thạo, ông biết người Chàm chưa bao giờ đặt chân lên vùng đất Krông Nô này suốt lịch sử. Nghĩa là người thanh niên kia đã thấy một điều gì đó rất lạ mà anh ta không hiểu được trong ngày đi làm đường hôm nay. Anh kể: trong khi lao động sáng nay, các anh đã phá một ụ đất để nắn lại con đường trước đây bị uốn cong, và tìm thấy trong ấy mười một phiên đá lạ, rất dài, và người Mnông khi gặp bất cứ vật cổ nào mà họ không thể hiểu và họ tin là bí ẩn, thiêng liêng thì đều coi đó là của người Chàm xưa…

Sáng hôm sau Condo cùng người thanh niên đi đến hiện trường, quan sát kỹ, nhận ra đấy là những phiến đá đã được đẻo gọt bởi bàn tay con người, một vật cổ, có thể là tiền sử… Những phiến đá ở làng Dnut Lieng Krak, cách Sar Luk khoảng 10 km, được Condominas phát hiện năm 1949, gửi về viện Nhân chủng học Paris, được các chuyên gia nhân học, khảo cổ học, nhạc học nghiên cứu tỉ mỉ, xác nhận là một bộ đàn đá tiền sử (đúng ra là hai bộ, thiếu mất một thanh), cực kỳ đặc sắc, là bộ đàn đá tiền sử đầu tiên tìm được trên thế giới, có niên đại khoảng ba nghìn năm… Condominas rất ít khi nhắc lại chiến công khảo cổ học từng làm chấn động thế giới ấy của ông.

Ông chỉ nói: “Dân tộc học là một loại hình sống”, vậy thôi. Thế đấy!… Từ Sar Luk, Condominas mang về cho thế giới khoa học (và cả văn học) tác phẩm “Chúng tôi ăn rừng Đá Thần Gô”, ra mắt ở nhà xuất bản Mercure de France, nơi chỉ chuyên in tác phẩm văn học của những văn hào lớn như Verlaine và Rimbaud, và cuốn sách lập tức được nhà nhân học hàng đầu Claude Lévy-Strauss coi là “đánh dấu sự đăng quang trong nền văn học dân tộc học của một thể loại hoàn toàn mới, nổi bật vì sự gắn bó với hiện thực bản địa, sâu sắc hơn tất cả những gì đã từng có trước nay”. Ít lâu sau, cuốn sách thứ hai về Sar Luk của ông ra đời, cũng hết sức độc đáo, cuốn “L’exotique est quotidien” (có thể dịch là “Kỳ lạ mỗi ngày”), bút ký tự thuật cảm động và uyên bác về sự nghiệp hay cuộc đời “dân tộc học là một loại hình sống” của ông…

Tôi thường tự hỏi, hẳn là một cách vớ vẩn, ông thuộc nền văn hóa nào, đông hay tây? Thật khó nói. Ông là một bậc hiền triết. Trong dân tộc học. Và giữa đời ngổn ngang. Nhìn ông mà xem, nhân hậu và hiền triết biết bao, khuôn mặt thân yêu ấy.

Hôm nay chúng ta tiễn đưa về cõi vĩnh hằng một nhà bác học lớn, một người bạn lớn của Việt Nam, đặc biệt của các dân tộc Tây Nguyên, người, tôi tin vậy, cho đến giờ phút cuối cùng vẫn không ngớt nổi nhớ dằng dặc và nổi lo đau đáu về Tây Nguyên của chúng ta, của ông. Vì Tây Nguyên đối với ông đã trở thành “một loại hình sống”.

Hãy yêu và lo như ông.


19-7-2011

18.7.11

Hư vô và vĩnh viễn

Cũng vô lý như lần kia dưới lá
Con chim bay bỏ lại nhánh khô cành
Đời đã mất tự bao giờ giữa dạ
Khi lỡ nhìn viễn tượng lúc đầu xanh


Buổi trưa đi vào giữa lòng lá nhỏ
Tiếng kêu kia còn một chút mong manh
Giòng nức nở như tia hồng đốm đỏ
Lạc trời cao kết tụ bóng không thành


Lá cũng mất như một lần đã lỡ
Trời đã xanh như tuổi ngọc đã xanh
Trời còn đó giữa tháng ngày lỡ dở
Hồn nguyên tiêu ai kiếm lại cho mình


Đường vất vả vó ngựa chồn lảo đảo
Cồn sương đi vào truông lạnh miên man
Bờ bến cũ ngậm ngùi sông nước dạo
Đêm tàn canh khắc vợi nguyệt gương ngàn


Một lần đứng lên mấy lần ngồi xuống
Ngón trên tay và tóc xoã trên đầu
Tình đếm lại muôn vàn thôi đã uổng
Để bây giờ em có biết nơi đâu


Bờ trùng ngộ một phen này phen nữa
Tờ cảo thơm như lệ ứa pha hồng
Hồn hoa cỏ Phượng Thành Hy Lạp úa
Nghe một lần vĩnh viễn gặp hư không

Bùi Giáng

12.7.11

Tình tuyệt vọng

Lòng ta chôn một khối tình
Tình trong giây phút mà thành thiên thâu
Tình tuyệt vọng nỗi thảm sầu
Mà người gieo thảm như hầu không hay
Hỡi ơi, người đó ta đây
Sao ta thui thủi đêm ngày chiếc thân
Dẫu ta đi trọn đường trần
Chuyện riêng đâu dám một lần hé môi
Người dù ngọc nói hoa cười
Nhìn ta như thể nhìn người không quen
Đường đời lặng lẽ bước tiên
Ngờ đâu chân đạp lên trên khối tình
Một niềm tiết liệt đoan trinh
Xem thơ nào biết có mình ở trong
Lạnh lùng, lòng sẽ hỏi lòng:
"Người đâu tả ở mấy giòng thơ đây".

Félix Arvers - Khái Hưng dịch

20.6.11

Những người khốn khổ



Bộ truyện yêu thích, còn đẹp như mơ

31.5.11

Hai cuốn sách về Trung Quốc




Giấc mơ Trung Quốc - Tư duy nước lớn và định vị chiến lược trong thời đại hậu Mỹ

Thế kỷ XXI là thế kỷ chứng kiến cuộc đua tranh quyết liệt giữa hai siêu cường Mỹ – Trung Quốc để giành vị trí số Một thế giới. Giấc mơ Trung Quốc là cuốn sách đầu tiên công khai tuyên bố mục tiêu thay Mỹ lãnh đạo thế giới, trở thành đất nước lãnh tụ, quốc gia giàu mạnh nhất trên trái đất của Trung Quốc.

Khám phá Giấc mơ Trung Quốc, bạn đọc sẽ tìm thấy đầy đủ những luận điểm chứng minh truyền thống “nhất thế giới” của Trung Quốc; điều kiện, lí do để Trung Quốc đảm nhiệm vai trò quốc gia lãnh tụ; bản chất của ngôi vị quán quân thế giới; mô hình cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc; chiến lược của Trung Quốc để giành vị trí siêu cường số Một;… Giấc mơ Trung Quốc cũng chỉ ra thuyết “Trung Quốc sụp đổ”, vạch rõ những mặt tiêu cực “nhất thế giới” của Trung Quốc, cảnh báo dân tộc đã tới lúc nguy hiểm, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thay đổi và trỗi dậy.

Giấc mơ Trung Quốc là cuốn sách cho thấy cái nhìn toàn diện về khát vọng và quyết tâm biến giấc mơ thành hiện thực của người dân nước này. Đồng thời, đây cũng được coi là cuốn sách gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh giới lãnh đạo Trung Quốc cần phải cứng rắn hơn với Mỹ.

20.5.11

Tài liệu tham khảo lịch sử Cách mạng cận đại Việt Nam









Bộ Tài liệu tham khảo lịch sử Cách mạng cận đại Việt Nam gồm 12 cuốn, hiện có 7 cuốn (thiếu các cuốn 1, 8, 9, 11, 12). Ngoài ra còn có thêm một cuốn Việt Nam vong quốc sử - Phan Bội Châu (Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội, 1958)

Tập 2: Khởi nghĩa Yên Thế, khởi nghĩa của các dân tộc miền núi (in lần thứ hai có bổ sung, Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội, 1958)

Tập 3: Những phong trào đấu tranh cách mạng từ đầu thế kỷ XX đến hết Đại chiến thứ nhất (in lần thứ hai có bổ sung, Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội, 1958)

Tập 4: Phong trào đấu tranh đòi tự do dân chủ và các chính đảng thành lập sau Đại chiến lần thứ nhất (in lần thứ hai có bổ sung, Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội, 1958)

Tập 5: Tân Việt Cách mạng Đảng, Việt Nam Quốc dân Đảng (in lần thứ hai có bổ sung, Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội, 1958)

Tập 6: Thời kỳ từ 1930 - 1935 (Ban Nghiên cứu Văn Sử Địa xuất bản, 1956)

Tập 7: Thời kỳ Mặt trận bình dân (Ban Nghiên cứu Văn Sử Địa xuất bản, 1956)

Tập 10: Phong trào chống Phát xít, chống chiến tranh và các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, Đô Lương (Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội, 1957)