28.8.09

Thăm dò tiềm thức


Thăm dò tiềm thức của Carl Gustav Jung, Vũ Đình Lưu dịch, Hoàng Đông Phương xuất bản tại Sài Gòn năm 1967.

Lời người dịch:

Carl Gustav Jung là nhà tâm phân học Thụy Sĩ có uy tín không kém gì Freud và được thế giới cho là người có công khoáng triển học thuyết của ông thầy.

Cuốn Thăm Dò Tiềm Thức (Essai d'exploration de l'inconscient) được Jung viết ra vài tháng trước khi ông từ trần. Trong cuốn sách nhỏ ấy nhà bác học tóm tắt tất cả học thuyết của ông, nó có giá trị một tờ chức thư để lại cho hậu thế.

Jung đã bỏ hẳn ngôn từ và lý luận chuyên môn, ông dùng một thể văn bình dị dễ hiểu để trình bày một học thuyết hết sức khúc mắc, bấy nay chỉ có một số chuyên gia hiểu được mà thôi. Với sự trình bày sáng sủa và giản dị của ông, đại chúng có thể biết được những nét đại cương về tâm phân học; và cũng nhờ sự hiểu biết ấy người thường sẽ có một ý niệm về bản chất thâm sâu của mình, họ có thể tự xét lại thái độ tâm tình, khả năng lý trí để nhận định lấy một đường lối phát triển nội tâm thích hợp, phong phú và có quân bình.

Tiểu sử tác giả

C. Gustav Jung đã viết rằng đời ông rất ít việc xảy ra cho cuộc sống bên ngoài. Ông thấy mình không thể nói gì về những chuyện ấy vì ông thấy chúng nghèo nàn tình tiết. Ông nói rằng ông chỉ tự hiểu ông nhờ những biến cố nội tâm đem lại cho ông chút ánh sáng. Theo ông thì đó chính là vẻ riêng biệt của đời sống ông. Những biến cố nội tâm không thuận tiện cho việc chép sử, độc giả muốn biết nên đọc thứ tự truyện của chính Jung đã viết dưới nhan đề Erinnerungen, Traume, Gedanken, đã dịch ra tiếng Anh (Memories, Dreams, Reflections, 1963).

Carl Gustav Jung sinh ngày 26 tháng 7-1875 tại Kesswil, tổng Thurgovie nước Thụy Sĩ. Tuy nhiên ông cho rằng mình không hẳn là người Thụy Sĩ vì gia đình ông mới nhập quốc tịch ấy được độ 100 năm mà thôi. Dư luận cho rằng ông là giòng giõi Goethe, nhưng trong thiên ký ức của ông, ông có thái độ ngờ vực đối với lời đồn đại ấy và ông cũng thấy hay hay. Đã từ mấy thế kỷ rồi tổ tiên của ông trong giới trí thức có tư tưởng rộng rãi phóng khoáng. Còn thân phụ ông là một nhà truyền giáo, bởi vậy đã có ảnh hưởng tinh thần đến tác phẩm của ông.

Là công dân thành phố Bâle, ông học y khoa ở đấy và chuyên về các bịnh thần kinh. Ông sang tu nghiệp ở ngoại quốc, có qua Ba-Lê, ở đây ông là học trò của Pierre Janet. Năm 1900, ông làm giảng sư ở trường đại học Zurich. Ông cùng với thầy học là Giáo Sư Bleuler huấn luyện cho các sinh viên thực tập. Như vậy, mặt tương lai rực rỡ đang chào đón ông trong ngành dạy học. Nhưng ông không theo con đường ấy, để dành hết thì giờ cho khách hàng và những công cuộc khảo sát tâm lý học, thần thoại học và ngôn ngữ học. Sau này ông lại nhận một vài hoạt động giảng sư, người ta dành cho ông nhiều chỗ ở trường Bách Khoa Zurich, phân khoa Y Khoa Bâle. Trong cuộc Đệ Nhị Thế Chiến ông giảng về tâm lý y khoa của phân khoa đó. Năm 1948 ông sáng lập viện C. Jung ở Zurich chuyên về phân tâm học theo phương pháp của ông. Một viện khác tương tự được thiết lập ở Los Angeles, Hiệp Chúng Quốc.

Trong những năm 1904-1905, ông thiết lập tại Zurich một phòng thí nghiệp tâm lý bệnh lý thực nghiệm. Tại đây ông thực hiện những cuộc khảo sát về phương pháp hội ý và hiện tượng tâm lý điện kích (psychogalvanique). Những cuộc khảo sát ấy làm ông nổi danh hoàn cầu. Trong thời gian ấy ông có thiện cảm với học thuyết của Freud, ông chỉ để ý đến những công việc khảo cứu của Freud về bệnh thác loạn thần kinh và giấc mơ. Hai người chơi thân với nhau đến nỗi Freud muốn chọn ông làm người kế nghiệp. Nhưng Jung ngờ vực thuyết của Freud về dục tình, về môn cận tâm lý học (parapsychologie) và khoa thần thoại học so sánh (mythologie comparée) cho nên hai người chia rẽ nhau.

Từ đầu thế kỷ, Jung xuất bản thêm nhiều sách, độ 30 tác phẩm và hơn trăm thiên bình luận, đề, tựa v.v... Trước khi viết một phần lớn những tác phẩm có dùng phương pháp so sánh ông đã sang Bắc Phi Châu, các nước Ả rập (1920), xứ Da Đỏ Pueblos, xứ Kenya và Uganda (1925), nước Ấn Độ (1938), nhờ vậy ông hiểu nhiều về tâm trạng người Cổ sơ và các nền văn minh khác với văn minh Âu Châu.

Ông có gia đình và sinh được 5 người con. Về già ông lui về Bollingen vùng cao nguyên hồ Zurich. Ông dựng lên một căn nhà nhỏ gọi là cái "Tháp", ông quan niệm là một cách ghi tạc vào đá quan niệm có tính cách biểu tượng của ông về người và cuộc đời.

Du khách từ khắp nơi trên hoàn cầu đến viếng thăm ông như một nhà hiền triết và ông mệnh chung tại đó tháng sáu năm 1961, hưởng thọ 86 tuổi. Trong tập Ký Ức của ông, ông ghi lại những câu: "Người ta bảo rằng tôi là hiền triết, nhưng tôi không dám nhận... Có khi tôi ngạc nhiên, có khi tôi cụt hứng, có khi tôi tự mãn, có khi tôi thất vọng chán nản, có khi tôi phấn chấn; tôi là tất cả những tâm tình ấy nhưng không thể cộng cả lại với nhau... Tôi không cho cái gì là chắc chắn cả. Lão Tử đã nói: "Ai ai cũng có điều tin chắc, chỉ có mình tôi thấy tối tăm". Lúc trở về già tôi mới thấm thía ý nghĩa câu nói ấy. Con người sinh ra trong một thế giới ác nghiệt và tàn nhẫn nhưng cũng là một thế giới đẹp đẽ thần tiên. Đời sống có ý nghĩa gì chăng hay là vô nghĩa? Cũng như tất cả các vấn đề siêu hình có lẽ cho là vô nghĩa hay có nghĩa đều đúng cả. Nhưng tôi vuốt ve hy vọng rằng cuộc đời có một ý nghĩa, đứng trước hư không người ta phải chấp nhận cuộc đời và người ta phải chiến thắng".

26.8.09

Hai cuốn sách của Henry Miller



- Ác quỉ trên thiên đàng, bản dịch Tâm Nguyễn, Kinh thi xuất bản năm 1971, 236 trang.

- Nụ cười dưới chân thang, bản dịch Lương Dinh, An Tiêm xuất bản năm 1974, 64 trang.

Đường đi trong rừng


Đường đi trong rừng của Bùi Giáng, Lá Hoa Cồn xuất bản tại Sài Gòn năm 1972. Ngẫu hứng về Martin Heidegger, Hoelderlin, Rilke, Đường thi và Nguyễn Du...

21.8.09

Trên tất cả đỉnh cao là lặng im


Lời mở đầu của Phạm Công Thiện

... Một đêm, tôi nằm chiêm bao thấy Goethe hiện về, bảo tôi hãy nhớ lại câu thơ ngắn của ông và gợi ý gián tiếp cho nhan đề tập thơ này:

Ueber allen Gipfeln
Ist Ruh

(Trên Tất Cả Những Đỉnh Cao
Là Bình Yên)

Một ngày xa xưa nào đó trong trí nhớ loài người, Goethe đã viết câu trên nơi khung cửa sổ túp lều gỗ vùng núi cao Kickelhaln ở Ilmenau vào một buổi chiều ngày 6 tháng 9 năm 1780; trên năm chục năm sau, trở về thăm lại chốn cũ, tình cờ Goethe nhìn thấy lại những câu thơ mình đã viết bằng bút chì nơi khung cửa ấy, dù trên nửa thế kỷ đã trôi qua và đã xóa đi tất cả mọi sự. Ngày 4 tháng 9 năm ấy, năm 1831, viết thư cho Zelter sau lần thăm chốn xưa, Goethe đã ghi nhận đôi lời hàm súc:

"sau bao nhiêu năm mình mới trông thấy:
những gì vẫn còn lại và những gì bị xóa mất"

Tôi đã bỏ quên đâu mất rất nhiều bài thơ của mình trên 35 năm lang thang lưu lạc khắp thế giới; tập thơ này chỉ còn lại những gì vẫn còn lại với sự Lặng Im hiu hắt nào đó trên cao...

Pham Công Thiện
Long Beach Califernia
Tháng 7 năm 2000


Trích vài bài thơ trong tập này:

Anh sẽ hiện

Anh sẽ hiện ồ anh sẽ hiện
Cả rừng cây không ai lên tiếng
Bóng tối tràn vũ trụ tan hoang
Tiếng thơ kêu trên đầu con kiến

Kiến lửa ngày xưa đốt mộng mơ
Nằm nghe con ngựa nhảy qua bờ
Em về bên ấy quên đi nhé
Anh chẳng bao giờ biết đến thơ

Một hàng áo trắng phất trong sương
Vũ trụ chiều nay sao quá buồn
Tôi đắp kín mền trong gác lạnh
Nghe mùa xuân dậy ở đông phương

Đông phương xanh lửa dậy tung hoành
Đông phương vàng dẫy chết chim oanh
Trời Paris chiều nay nhân loại ngủ
Em đi đi và nhớ quên anh

Đời anh buồn trần gian đi chợ
Mặt anh buồn như chim không thở
Cả sông này cả đời này nứt vỡ thành thơ
Rừng thơ hiện Đông phương im tiếng

Anh về rồi mây mọc bên hiên
Ồ em ơi trời đất chìm rồi
Đông phương lặng bướm ngày tan biến.

Mộng

Mộng ở đầu cây mơ lá cây
Giòng sông ngừng chảy đợi mây bay
Kêu nhau nhỏ nhẹ sầu năm ấy
Chim hải hồ bay trắng tháng ngày

Tình nhỏ quên rồi em ở đâu
Mây bỏ trời đi tìm sông sâu
Em về lồng lộng như sương trắng
Hồn chết trôi về thương hải châu

12.8.09

Chúng tôi ăn rừng



- Cuốn bút ký Chúng tôi ăn rừng của Georges Condominas, NXB Thế Giới, quý IV.2008.

- Cuốn "Chúng tôi ăn rừng..." Georges Condominas ở Việt Nam, NXB Thế Giới, quý IV.2007. Cuốn này được xuất bản nhân trưng bày "Chúng tôi ăn rừng..." Georges Condominas ở Sar Luk từ ngày 11.12.2007 đến 16.3.2008 tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.

Người Mnông Gar, cũng như phần lớn những người miền núi Tiền - Đông Dương, "ăn rừng", theo cách nói của họ, nghĩa là họ canh tác bằng cách đốt rẫy. Georges Condominas đã đến với dân làng Sar Luk ở Tây Nguyên chia sẻ cuộc sống cùng họ trong suốt một năm tương đương ứng với một chu kỳ nông nghiệp trọn vẹn và đã mô tả lại trải nghiệm đó của ông trong cuốn sách này. Từ cuộc hiến tế trâu trong đám tang của Taang-Jieng-Còng, đám cưới của Jaang, vụ tự tử của anh chàng Tieng đẹp trai, đến Lễ Đất lớn, ta cùng sống với ông cho đến khi kết thúc năm Đá-Thần Gôo...

Khi cuốn sách này ra đời, nhà dân tộc học nổi tiếng Claude-Lévi Strauss đã nồng nhiệt chào mừng: "Chúng tôi ăn rừng đã đánh dấu sự đăng quang trong nền văn học dân tộc học của một thể loại hoàn toàn mới, nổi bật vì sự gắn bó và hiện thực bản địa, sâu sắc hơn tất cả những gì đã từng có trước nay".

Đặc biệt, ngoài tác phẩm bút ký hấp dẫn này, những tư liệu của tác giả trong thời gian sống ở làng Sar Luk gồm sổ ghi chép, ký họa, từ vựng, ảnh chụp và hơn 500 hiện vật về sinh hoạt thường ngày của đồng bào Mnông Gar đã được lưu giữ ở Bảo tàng Quai Branly (Paris). Cuối năm 2007, những tư liệu quý giá đó đã quay trở lại Việt Nam trong cuộc trưng bày tại Bảo tàng Dân tộc học (Hà Nội), để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người xem và thôi thúc nhiều người tìm đọc lại tác phẩm nổi tiếng Chúng tôi ăn rừng. Sách đã được dịch ra tiếng Việt, Ý, Nga, Đức, Anh, Nhật, Hung và tái bản nhiều lần tiếng Pháp.

Georges Condominas sinh năm 1921 tại Hải Phòng, tiến sĩ văn học và khoa học nhân văn. Giám đốc Trung tâm tư liệu và nghiên cứu Đông Nam Á và khu vực Nam Đảo, Chủ tịch Ban Nhân học, Dân tộc học, Tiền sử học của Ủy ban quốc gia nghiên cứu khoa học - Phó Chủ tịch của Liên hiệp quốc tế các khoa học Nhân học và dân tộc học. Giáo sư thỉnh giảng tại một số trường ĐH ở Mỹ, Úc, Nhật Bản...

Đề tài nghiên cứu chính: dân tộc học và từ vựng học những nhóm Nam Á thuộc Tây Đông Dương, đặc biệt người Mnông Gar ở Trung Bộ, Xã hội học về tôn giáo dân gian Lào, Dân tộc học về Madagascar. Tác phẩm: Chúng tôi ăn rừng Đá - Thần Gôo (1957); Fokon'olona và những tập thể nông thôn ở Imerina (1960); Cái lạ là cái hàng ngày (1965); Không gian xã hội (1980); Đạo Phật ở làng (1998)...

11.8.09

Nam tước trên cây


Nam tước trên cây, một cuốn tiểu thuyết khác lạ trong văn chương đương đại, vuột ra khỏi mọi định nghĩa chính xác như chính tác giả của nó - nhà văn Ý Italo Calvino tự nhìn nhận, được viết những năm 1956-1957 khi ông 33 tuổi.

Lấy bối cảnh thời kỳ Khai sáng châu Âu cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX tại một xứ sở tưởng tượng có tên Bóng râm, ở đâu đó của vùng Liguria bờ biển miền tây bắc nước Ý trong ký ức thời niên thiếu của tác giả, cuốn truyện viết về cuộc đời ly kỳ của Nam tước Cosimo MưaGiông xứ Rondo khi lên 12 tuổi, phản kháng lại những đề nén của những lề thói gia đình mà đỉnh điểm là món ốc sên trên bàn ăn nhà mình, đã thoắt một cái trèo lên cây để từ đó ở lỳ cho đến hết cuộc đời, mặc cho bao phương cách đưa chàng xuống đất của cha mẹ, người thân và trước những biến động bão táp chấn động bởi cuộc Cách mạng Pháp năm 1789...

Câu chuyện được kể qua lời của Biagio - cậu em của Cosimo trong nỗi niềm tiếc nuối và khâm phục người anh trai của mình, đã dẫn dắt người đọc vượt qua bao nhiêu là cành nhánh, từ những cây ôliu khúc khuỷu, cây sồi xanh vạm vỡ để đến những cây đào với các cành lá mềm mại, rồi là những cây sung, cây mộc lan, cây minh quyết... Cứ thế, cuộc đời hơn 53 năm sống trên cây của Cosimo dần dần được tái hiện với những sự kiện lạ lùng như đối mặt với cướp biển Thổ Nhĩ Kỳ, làm bạn với tên cướp khét tiếng Gian ChùmThạchThảo, chiến đấu cho lý tưởng dân chủ, gia nhập hội Tam điểm hay đối thoại với Napoléon... và đặc biệt là mối tình say nồng thuở ấu thời với nàng Violante nhà láng giềng.

Với Cosimo, tuy luôn ở trên cây nhưng anh không bao giờ cắt đứt với cuộc sống của mọi người xung quanh. Và chính những khi treo mình dưới các tán lá xanh mướp trong ánh nắng lấp lánh, chàng Nam tước độc đáo này có được một cái nhìn tự do, khoáng đạt, khác với cái nhìn thường thấy của con người, mà đặc biệt là với những tầng lớp quý tộc mà anh từng thuộc về để hướng tấm lòng đến những người dân nghèo khổ bằng các cách thức riêng. Đó cũng là niềm khao khát của con người trong những xã hội bao vây của các bổn phận, qui ước, đúng như lời của Biagio khi nói: "Tôi ganh với Cosimo, kẻ sống những ngày, những đêm của mình, nương náu nơi bưng biền, trong chốn rừng xanh nào ai biết"…

Về tác phẩm này, Italo Calvino viết: "Một cậu bé trèo lên một ngọn cây, đu bám trên cành, chuyền từ cây này sang cây kia, quyết định không xuống nữa. Tác giả quyển truyện không làm gì khác hơn là khai triển hình ảnh giản dị này và đẩy nó đến một hệ quả tối cực: nhân vật sống cả đời trên cây, một cuộc đời không hề đơn điệu, thật vậy: sôi nổi phiêu lưu; không hề ẩn dật, song luôn duy trì một khoảng cách giữa mình và đồng loại: tối thiểu mà không thể vi phạm". Với Nam tước trên cây, nhà văn hậu hiện đại xuất sắc nước Ý thế kỷ XX Calvino tiếp tục trở lại với những chủ đề căn bản của tư tưởng thời Khai sáng trong việc khẳng định sự hiện hữu của cái tôi. Đó là những con người như chàng Nam tước Cosimo sẽ đi đến tận cùng khát vọng giải phóng trong sự gắn chặt với thiên nhiên với một suối nguồn suy tư lý tính...

Italo Calvino (1923-1985) là một trong những nhà văn lớn nhất thế kỷ XX của Ý. Phần lớn tác phẩm của ông là kiệt tác, trong đó có bộ ba tiểu thuyết kỳ ảo về thời quá khứ với tên gọi chung Tổ tiên của chúng ta gồm: Tử tước bị chẻ đôi người (1952), Nam tước trên cây (1957), và Hiệp sĩ không hiện hữu (1959). Ngoài ra ông còn có Cosmicomics (1965), Những thành phố vô hình (1972), Nếu một đêm đông người lữ khách (1979)...

9.8.09

Trong những cánh rừng vĩnh cửu


Nhà văn Fred Vargas - người được mệnh danh là "nữ hoàng truyện trinh thám Pháp" vừa đến với độc giả VN qua tác phẩm nổi tiếng nhất của bà, Trong những cánh rừng vĩnh cửu.

Ở cuốn tiểu thuyết thứ 11 này của mình, Fred Vargas tiếp tục trở lại với anh chàng cảnh sát trưởng quen thuộc Jean-Baptiste Adamsberg cùng Đội Hình sự Paris trong một vụ án nghẹt thở và đầy ám ảnh cùng với lối kể chuyện đã tạo nên một phong cách đặc trưng. Thong dong, chậm rãi trong từng câu chữ, gây kích thích tột độ nhưng không kém phần hài hước, thơ mộng, nhà văn của những chi tiết rời rạc dần dần dẫn dụ người đọc qua hết những bức tường này đến những bức tường khác của các sự kiện để hướng đến một sự thật ngỡ ngàng nhưng đầy logic được bà bày ra ngay từ những trang sách đầu tiên.

Cảnh sát trưởng Adamsberg của Trong những cánh rừng vĩnh cửu phải đối diện với một Cái Bóng siêu thực cùng mớ hỗn độn bắt đầu từ vụ án mạng tại một cổng Giáo đường khi hai người đàn ông to cao một da đen, một da trắng cùng bị sát hại bởi nhát chém chí tử vào cổ được cho là bởi một người phụ nữ nhỏ con. Bắt đầu từ đó, Fred Vargas lần lượt đưa ra những nút thắt để Adamsberg đối mặt và chàng cảnh sát thơ mộng và nhạy cảm này phải từng bước vượt qua để phá vỡ bức tường tội ác có lúc tưởng chừng như không thể.

Không thiếu những chi tiết kinh dị với các hình ảnh về việc giết chết rồi sau đó lật mồ hai cô trinh nữ để lấy mớ tóc của họ, việc sát hại các con hươu để lấy chiếc xương kỳ lạ nằm trong tim chúng..., con đường tìm kiếm hung thủ vụ án như không có điểm dừng trong việc lôi kéo, đuổi bắt nhau của những người trong cuộc. Ngay từ đầu, Adamsberg cùng các cộng sự của anh đã bị kẻ giết người không ngờ tới đặt vào hành trình tội ác của nó để cả hai bên vờn nhau trong những khám phá giật mình.

Cuốn tiểu thuyết còn là sự đối đầu của các mối hận thù xa xưa với một cái được hóa giải trong tình bạn còn một cái là việc đi đến tận cùng tội ác. Nếu như Adamsberg cùng người cộng sự mới đến Veyrenc tìm về quá khứ để giải tỏa những mâu thuẫn trong họ thì giữa Adamsberg và kẻ giết người, đó là việc tiến tới khẳng định sự chiến thắng. Và cũng chính trong nụ cười thỏa mãn ngỡ mình đã thành công, kẻ sát nhân phân ly (tức là một người có hai mặt cuộc sống đối lập nhau, một mặt bình thường còn mặt kia liên tục thực hiện các vụ giết người để thỏa mãn lòng ham muốn thống trị. Hai mặt ngăn cách bởi bức tường tội ác) không ngờ đã để cho đối thủ của mình có được tín hiệu kết thúc vụ án.

Với Trong những cánh rừng vĩnh cửu, "một lần nữa, Fred Vargas đã thành công cùng nghệ thuật chơi chữ để tạo ra một vũ trụ vô song ghi tạc những khoảnh khắc nên thơ và những cảnh tượng gần như siêu thực" (www.evene.fr); đồng thời bà cũng đã lại thành công trong việc xây dựng nên một nhân vật trinh thám Adamsberg lừng danh không phải là những "siêu nhân" thường thấy trong các tác phẩm trinh thám khác mà là một con người gần gũi với cuộc đời, mang hơi thở của cuộc sống với những yêu ghét giận hờn...

Sinh năm 1957 tại Paris với mẹ là nhà hóa học và bố là một học giả uyên bác, Fred Vargas (tên thật là Frédérique Audoin-Rouzeau) ngay từ nhỏ đã được thừa hưởng cả hai tố chất trí tuệ này. Les jeux de l'amour et de la mort (tạm dịch Trò chơi ái tình và chết chóc), "cú thử sức liều lĩnh" đầu tiên của Fred Vargas ở lĩnh vực viết tiểu thuyết, ngay lập tức trở nên nổi tiếng và giành được giải thưởng Tiểu thuyết Trinh thám tại Liên hoan Cognac vào năm 1986. Cuốn tiểu thuyết thứ hai, L'homme aux cercles bleus (tạm dịch Người đàn ông với những chiếc vòng xanh) tiếp tục tôn vinh sự nghiệp tiểu thuyết gia trinh thám của bà và đây cũng là lúc anh chàng cảnh sát trưởng trứ danh Jean-Baptiste Adamsberg xuất hiện.

Các tác phẩm của Fred nhận được vô số giải thưởng, trong đó phải kể đến giải Mystère de la critique cho Debout les morts (tạm dịch Người chết sống dậy) vào năm 1995, giải Tiểu thuyết Trinh thám tại Liên hoan Cognac cho L'homme à l'envers (tạm dịch Mặt trái người đàn ông) vào năm 1999, giải thưởng danh giá Prix des Librairies cho Pars vite et reviens tard (tạm dịch Khởi hành nhanh và trở về chậm) vào năm 2002 và giải Trophée 813 cho tiểu thuyết trinh thám bằng tiếng Pháp xuất sắc nhất cho Dans les bois éternels (Trong những cánh rừng vĩnh cửu) vào năm 2006.

Trong những cánh rừng vĩnh cửu, tiểu thuyết trinh thám của Fred Vargas, do Lê Quang Toản dịch, NXB Văn hóa Sài Gòn và Nhã Nam liên kết xuất bản và phát hành.